Bệnh bạc lá lúa hay còn gọi là bệnh cháy bìa lá lúa, là một trong những bệnh hại lúa thường gặp đặc biệt trong vụ lúa Hè – Thu và vụ Mùa. Bệnh có xu hướng gây hại nhanh trên diện rộng nếu không được phòng trị kịp thời. Mời bà con cùng Việt Thắng Hà Nội tìm hiểu thông tin chi tiết về bệnh bạc lá lúa và các biện pháp phòng trừ qua bài viết sau.
Tìm hiểu bệnh bạc lá hại lúa
1. Tác nhân gây bệnh bạc lá trên lúa
– Bệnh bạc lá lúa do vi khuẩn Xanthomonas Oryzea gây ra. Khi mắc bệnh, cây không có khả năng quang hợp để tạo dinh dưỡng nuôi hạt. Những ruộng lúa bị bệnh bạc lá có tỷ lệ hạt lép rất cao, làm giảm năng suất rất lớn, có thể mất trên 50% năng suất.
– Vi khuẩn có thể sống trong đất từ 1-3 tháng, tùy ẩm độ đất và tính acid của đất.
– Vi khuẩn có thể lưu tồn trong hạt sau thu hoạch cho đến 3 tháng sau. Vi khuẩn không những có bên trong vỏ trấu mà còn có cả trong phôi nhũ. Tuy nhiên, nếu hạt được phơi nắng khô thì vi khuẩn sống không quá 40 ngày và khi ngâm hạt vào nước sau 24 giờ thì mật số bị giảm 99% và hoàn toàn bị chết hẳn sau 5 ngày ngâm. Do đó hạt không phải là nguồn lây bệnh quan trọng.
– Cỏ dại, tàn dư cây lúa sau thu hoạch và dạng viên keo vi khuẩn là nguồn bệnh bảo tồn trên đồng ruộng.
– Chân rạ và rễ lúa là nguồn bệnh, nhất là đối với trường hợp bệnh phát triển và thể hiện triệu chứng dạng héo xanh (kresek).
– Vi khuẩn có hai dạng, với khả năng lưu tồn khác nhau, dạng vi khuẩn khô kết hợp thành khối trong mô mộc của nhu mô thì có kích thước nhỏ hơn, nhưng lưu tồn lâu hơn trong điều kiện bất lợi.
– Ở các nước nhiệt đới, do nhiệt độ tương đối cao, thích hợp cho vi khuẩn gây bệnh phát triển quanh năm, nhiều cỏ dại và gốc rạ, giúp vi khuẩn lưu tồn từ vụ này qua vụ khác. Trong nước kênh rạch, nước ruộng, mật số vi khuẩn hầu như cao quanh năm. Các yếu tố này có lẽ đã góp phần làm cho bệnh của các nước nhiệt đới khá nghiêm trọng.
2. Điều kiện phát sinh phát triển bệnh bạc lá lúa
– Bệnh phát triển mạnh trong điều kiện ấm nóng và thường vụ Hè thu – Mùa bệnh hại nặng hơn so với vụ Xuân.
– Điều kiện nhiệt độ 26-30oC, ẩm độ cao (>= 90%) thích hợp cho bệnh phát sinh, phát triển. Thời tiết mưa to, gió lớn hoặc bão ẩm độ cao là điều kiện thuận lợi cho bệnh bạc lá phát sinh gây hại trên diện rộng.
– Bệnh phát triển mạnh ở những ruộng màu mỡ, bón nhiều phân đặc biệt là phân đạm, bón đạm lai rai, bón không cân đối giữa (NPK), cây lúa xanh tốt, thân mền yếu, hàm lượng đạm tự do trong cây tích lũy cao thì cây dễ nhiễm bệnh nặng.
– Những chân ruộng chua, trũng, đặc biệt là vùng đất hẩu, hàng lúa bị bóng cây che phủ thì bệnh phát triển và gây hại nặng hơn.
– Các giống lúa khác nhau thì mức độ mẫn cảm với bệnh cũng khác nhau. Những giống có bản lá to mỏng (lúa lai, lúa thuần của Trung Quốc) thường bị nặng.
– Giai đoạn lúa làm đòng – trỗ – kéo dài tới chín sữa là giai đoạn mẫn cảm nhất đối với bệnh và cũng gây thiệt hại năng suất cao nhất.
3. Triệu chứng cây lúa bị bệnh cháy bìa lá
Bệnh thường xuất hiện ở giai đoạn lúa trổ, tuy nhiên cũng có khi bệnh gây hại trên mạ.
– Trên mạ: Bìa của các lá già bên dưới có những đốm úng nước nhỏ, đốm lớn dần ra làm lá trở nên vàng và khô héo.
– Trên phiến lá: Vết bệnh thường bắt đầu ở cách chóp lá một khoảng, tạo các sọc dài úng nước ở một hay hai bên bìa lá, vài ngày sau, vùng bệnh biến sang màu vàng, bìa gợn sóng. Vùng bệnh phát triển dần ra, vùng mô tiếp giáp giữa mô bệnh và mô khỏe bị úng nước. Vùng mô bệnh sẽ trở thành màu xám trắng do sự phát triển của nhiều nấm hoại sinh. Vết bệnh có thể là những sọc ở vị trí bất kỳ trên phiến lá, nơi có vết thương.
– Hạt cũng có thể bị nhiễm bệnh, vỏ hạt có đốm bị biến màu, viền úng nước nếu hạt còn non; ở hạt già, đốm có màu xám trắng hay trắng vàng.
Biểu hiện của triệu chứng bệnh còn tùy theo tính nhiễm của giống, vết bệnh có thể lan khắp phiến lá làm lá bị khô đi trong khi trên các giống hơi kháng hơn, vết bệnh có thể chỉ là những sọc vàng.
Trên các vết bệnh mới, vào sáng sớm có thể thấy các giọt vi khuẩn đục hay vàng, ứa ra trên mặt lá và bị gió làm rơi vào nước ruộng.
Biện pháp phòng trừ bệnh bạc lá hại lúa
1. Biện pháp canh tác
– Sử dụng giống chống chịu bệnh
– Bố trí thời vụ gieo cấy hợp lý để giai đoạn lúa – đòng trỗ – chín vào thời gian ít bị ảnh hưởng của mưa bão.
– Áp dụng kỹ thuật canh tác lúa cải tiến SRI, 3 giảm, 3 tăng, 1 phải 5 giảm, quản lý dịch hại tổng hợp IPM. Bà con nên cấy thưa, cấy 1-2 dảnh/khóm, bón lót sâu, bón thúc sớm, tập trung bón nặng đầu nhẹ cuối và bón cân đối giữa NPK giúp cho cây lúa sinh trưởng phát triển khỏe tăng khả năng chống chịu bệnh ngay từ đầu.
– Đối với những địa phương hay bị bệnh bạc lá lúa thì ưu tiên bón tăng lân và kali.
– Với những chân ruộng hẩu hay dồn đạm cuối vụ, bà con cần giảm lượng đạm, bón tăng lân và kali cho cây cứng và lá dày, đỡ bị nhiễm bệnh bạc lá cuối vụ. Bón lót sâu, bón thúc đẻ nhánh sớm ngay sau cấy 7-10 ngày.
– Tưới nước hợp lý để cây lúa cứng cây, cứng lá, vừa tăng khả năng chống đổ vừa tăng khả năng chống chịu dịch hại nói chung và bệnh bạc lá nói riêng.
– Kiểm tra đồng ruộng thường xuyên, phát hiện bệnh sớm để xử lý kịp thời. Khi phát hiện cây lúa bị nhiễm bệnh, cần giữ nước ruộng 3 – 5 cm, dừng bón tất cả các loại phân hóa học, phân bón lá và thuốc kích thích sinh trưởng.
– Tích cực phòng trừ côn trùng gây thương tích cho lúa
2. Biện pháp hóa học
– Khi các diện tích lúa chớm xuất hiện bệnh, bà con sử dụng các loại thuốc đặc trị vi khuẩn như Kamsu 2SL, Sasa 25WP, Kasagen 250 WP. Khi lúa trổ xong, có thể phun bổ sung các loại thuốc như A-V-T Vil 5SC, Supertim 300EC để giảm tỉ lệ lem lép hạt.
– Giai đoạn lúa đòng – trổ – chín, bà con cần theo dõi chặt chẽ diễn biến của thời tiết tiến hành phun trước và sau mưa giông bằng các thuốc bảo vệ thực vật nêu trên theo nguyên tắc 4 đúng và theo hướng dẫn sử dụng trên bao bì để ngăn chặn bệnh lây lan trên diện rộng.